Sử dụng mô hình toán học dựa trên dữ liệu của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC - Mỹ), một nhà khoa học đã tính toán xem việc không có tang chế ảnh hưởng như thế nào đến tuổi thọ của các bà mẹ ngày nay.
Matthew Zipple, Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ của Viện Klarman về sinh học thần kinh và hành vi tại Đại học Cornell (New York - Mỹ) ước tính rằng việc giảm bớt sự mất mát người mẹ sẽ kéo dài tuổi thọ của phụ nữ trung bình thêm một năm.
Tỷ lệ tử vong trẻ em giảm kéo theo tuổi thọ người mẹ tăng lên trung bình hơn 1 năm. |
Matthew cho biết: "Hình ảnh tôi đang xây dựng trong đầu là nghĩ về dân số, các bà mẹ trông như thế nào vào năm 1900". Ông đã viết báo cáo khoa học mang tên "Cuộc sống của các bà mẹ" được xuất bản trên tạp chí Scientific Reports .
Trong báo cáo, ông chia các bà mẹ thành hai nhóm có quy mô gần bằng nhau: Một nhóm là những bà mẹ mất con và một là những bà mẹ không có con. Nếu chúng ta so sánh điều đó với ngày nay, khi việc mất con đã ít xảy ra hơn rất nhiều.
Trong bài báo, Matthew Zipple trích dẫn một số nghiên cứu cho thấy mối liên hệ nhân quả giữa cái chết ở trẻ em với nguy cơ tử vong mẹ tăng lên. Toàn diện nhất là nghiên cứu về các bà mẹ ở Iceland trong khoảng thời gian 200 năm, trải rộng trên nhiều lĩnh vực tiếp cận chăm sóc sức khỏe và công nghiệp hóa.
Ở Hoa Kỳ vào năm 1900, > 18% trẻ em chết trước sinh nhật thứ 5 và 21% chết trước 15 tuổi. Năm 2000, những con số tương tự lần lượt là 0,8% và 1% . Trong cùng thời kỳ, tổng tỷ suất sinh giảm đáng kể, tổng mức sinh giảm từ 3,85 trẻ năm 1900 xuống còn 2,05 trẻ năm 2000.
Sự kết hợp giữa mức giảm đáng kinh ngạc về tỷ lệ tử vong ở trẻ em và tổng mức sinh đã dẫn đến ước tính giảm 96% tỷ lệ phụ nữ mất con trong thời gian sinh sản. Tuổi thọ của phụ nữ sau 15 tuổi tăng khoảng 16 tuổi từ năm 1900 đến năm 2000, Zipple nhận thấy từ dữ liệu CDC mà ông sử dụng trong nghiên cứu.
Nhìn thấy con lớn khôn tác động tích cực đến chất lượng cuộc sống, giúp người mẹ tăng tuổi thọ. |
Tính toán của ông cho rằng một năm, hay khoảng 6% của mức tăng này, là do tỷ lệ tử vong ở trẻ em giảm đáng kể trong suốt thế kỷ 20.
Zipple cho biết nghiên cứu này cũng giúp đặt ra các ưu tiên cho sự tiến bộ trong tương lai. Ở nhiều quốc gia, tỷ lệ tử vong ở trẻ em ngày nay tương tự như ở Mỹ vào năm 1900. Đầu tư vào việc giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em ở mọi nơi không chỉ giúp ích cho trẻ em mà còn cho cả cộng đồng.
Trẻ em luôn xem là cốt lõi của cộng đồng. Bảo vệ trẻ em khỏi tử vong có những tác động tích cực bắt đầu từ các bà mẹ.
Những kết quả này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự tồn tại dai dẳng của khoảng cách giới tính trong tuổi thọ. Ngay cả khi tuổi thọ trung bình ở Mỹ đã tăng lên, nữ giới vẫn tiếp tục sống lâu hơn nam giới, khoảng cách chỉ được thu hẹp một chút trong thế kỷ 21 này.
Trong khi những người cha có thể phải đối mặt với một số nguy cơ tử vong gia tăng do mất người thân, các nghiên cứu đã nhiều lần chứng minh rằng bất kỳ tác động nào như vậy là nhỏ và nhỏ hơn nhiều so với tác động của việc mất con đối với sự sống sót của người mẹ.
Báo cáo khoa học này cũng chỉ ra sự mất mát người mẹ không phải là hình thức mất mát duy nhất dẫn đến tỷ lệ tử vong gia tăng. Cái chết của người phối ngẫu hoặc cha mẹ có liên quan, dẫn đến tỷ lệ tử vong gia tăng.